Khủng hoảng tài chính là gì? Đâu là nguyên nhân gây ra khủng hoảng tài chính?

Thông tin FED tăng lãi suất, đồng Yên Nhật giảm giá trị, tình hình lạm phát ở nhiều quốc gia tăng cao… khiến nhiều nhà đầu tư lo lắng khủng hoảng tài chính thế giới bùng nổ. Vậy khủng hoảng tài chính là gì? Để có cái nhìn rõ hơn về vấn đề này, cùng Phố Đầu Tư tìm hiểu chi tiết về khủng hoảng tài chính trong bài viết dưới đây.

Khủng hoảng tài chính là gì?

Khủng hoảng tài chính trong tiếng anh là Financial crisis. Đây là thuật ngữ được sử dụng khi thị trường tài chính bị sụp đổ, đồng tiền mất đi giá trị và không còn khả năng luân chuyển vốn hiệu quả từ người tiết kiệm đến nhà đầu tư. Từ đó dẫn tới suy thoái kinh tế.

Trong thế kỷ 19 và thế kỷ 20, nhiều cuộc khủng hoảng tài chính đã diễn ra ở mọi nơi trên thế giới. Phần lớn trong số đó liên quan đến sự khủng hoảng của ngân hàng và suy thoái kinh tế.

Khủng hoảng tài chính trong tiếng anh là Financial crisis

Khủng hoảng tài chính và khủng hoảng kinh tế có liên quan đến nhau. Tuy nhiên, đây lại là 2 thuật ngữ khác nhau.

Khủng hoảng kinh tế là sự thay đổi của nền kinh tế thực còn khủng hoảng tài chính là sự bất ổn của thị trường tiền tệ. Khủng hoảng kinh tế có thể kéo theo khủng hoảng tài chính.

Các loại khủng hoảng tài chính

Khủng hoảng tài chính gồm 4 loại, bao gồm khủng hoảng ngân hàng, bong bóng đầu cơ và sự sụp đổ, khủng hoảng tài chính quốc tế và cuộc khủng hoảng kinh tế rộng hơn.

Khủng hoảng ngân hàng

Khủng hoảng ngân hàng xảy ra khi người gửi đồng loạt rút tiền khiến ngân hàng không có đủ số tiền đáp ứng do phần lớn số tiền đã được cho vay. Các ngân hàng dần mất khả năng hoàn trả các khoản nợ dẫn tới phá sản. Nếu không có bảo hiểm tiền gửi, người gửi tiền sẽ mất toàn bộ số tiền gửi của mình.

Nếu tình trạng này lan rộng, khủng hoảng mở rộng trên toàn hệ thống ngân hàng dẫn tới khủng hoảng tài chính. Nhiều cuộc khủng hoảng ngân hàng đã diễn ra trong quá khứ như sự sụp đổ của ngân hàng Bear Stearns năm 2008, người dân đồng loạt rút tiền gửi tại Ngân hàng TMCP Á Châu năm 2003…

Khủng hoảng ngân hàng

Bong bóng đầu cơ và sự sụp đổ

Bong bóng đầu cơ là hiện tượng nhiều người đổ xô mua một loại tài sản nào đó với mục đích đầu cơ, thổi giá trị của tài sản lên cao hơn nhiều so với giá trị thực tế của nó.

Khi giá tăng lên quá cao, không có người mua hay các nhà đầu cơ đồng loạt bán ra, giá trị tài sản bị giảm mạnh (rớt giá). Lúc này, người mua và ngân hàng sẽ chịu thiệt hại nặng nề, tạo ra khủng hoảng tài chính.

Nhiều ví dụ bong bóng tài chính trong thực tế như bong bóng bất động sản gây khủng hoảng tài chính năm 2008, bong bóng dotcom năm 2000 – 2001, phố Wall sụp đổ năm 1929, bong bóng tài sản tại Nhật năm 1980, cơn sốt hoa tulip ở Hà Lan năm 1637…

Khủng hoảng tài chính quốc tế

Khi bong bóng đầu cơ tài chính bị vỡ sẽ dẫn tới phá giá tiền tệ và khủng hoảng cán cân thanh toán. Lúc này, các quốc gia không thể duy trì cơ chế tỷ giá cố định được nữa, đồng nội tệ bị mất giá, Chính phủ đối mặt với nguy cơ vỡ nợ quốc gia. Tình trạng này diễn ra tại nhiều nước sẽ tạo thành cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế.

Thực tế, trên thế giới đã có nhiều cuộc khủng hoảng tương tự như cuộc khủng hoảng cuộc một số nước Châu Âu tham gia Cơ chế tỷ giá Châu Âu năm 1992 – 1993, khủng hoảng tài chính Đông Á 1997 – 1998, khủng hoảng tài chính ở Nga năm 1998…

Cuộc khủng hoảng kinh tế rộng hơn

Cuộc khủng hoảng kinh tế rộng hơn xảy ra khi nền kinh tế bị suy thoái trên diện rộng trong một thời gian dài. Kinh tế suy thoái là hiện tượng tăng trưởng GDP âm kéo dài trong 2 – 3 quý liên tục. Nếu tình trạng suy thoái vẫn tiếp diễn sẽ trở thành đại suy thoái.

Khi nền kinh tế suy thoái, các hoạt động kinh tế bị suy giảm hoặc đình trệ kéo dài ít nhất trong vài tháng. Điều này có thể nhận biết được thông qua các chỉ báo như sản xuất, nhân dụng, thu nhập thực và một số chỉ báo khác. Khi tình trạng tăng trưởng kinh tế giảm trên 10% thì được coi là đại suy thoái.

Cuộc khủng hoảng kinh tế rộng hơn

Trong quá khứ, một số cuộc đại suy thoái kinh tế đã bùng nổ như đại suy thoái 1929 – 1933, suy thoái kinh tế Mỹ giai đoạn 2008 – 2010. Những cuộc suy thoái này đều bắt nguồn từ sự sụp đổ của ngân hàng và thị trường tài chính.

Nguyên nhân khủng hoảng tài chính

Nguyên nhân khủng hoảng tài chính là do đâu? Đó có thể do biến động lãi suất, gia tăng sự bất ổn nào đó, do ảnh hưởng của thị trường cổ phiếu, vấn đề trong lĩnh vực ngân hàng và thâm hụt ngân sách nhà nước.

Lãi suất tăng cao

Nhu cầu vay tín dụng tăng cao hay cung tiền giảm làm lãi suất tăng cao. Lúc này, những người có rủi ro tín dụng tốt sẽ e ngại vay vốn, những người rủi ro tín dụng cao vẫn tha thiết muốn vay. Sự đối nghịch này khiến ngân hàng không còn muốn cho vay nữa.

Khi đó, dòng tiền đổ vào các hoạt động kinh tế như đầu tư, kinh doanh, sản xuất, tiêu dùng sẽ giảm theo khiến nền kinh tế suy thoái. Tình trạng suy thoái kéo dài có thể gây bùng nổ khủng hoảng tài chính.

Gia tăng sự bất ổn

Sự bất ổn trên thị trường tài chính, của nền kinh tế hay sự bất ổn của chính trị đều có thể dẫn tới suy thoái kinh tế. Nhất là sự sụp đổ của một đế chế tài chính lớn, hệ thống ngân hàng hay thị trường cổ phiếu dẫn nền kinh tế đến sự suy thoái nhanh hơn.

Trong tình hình đó, rủi ro tín dụng tăng cao, ngân hàng ngần ngại cho vay khiến cung tiền trong nền kinh tế giảm, kéo các hoạt động kinh tế đi xuống. Ở một diễn biến khác, sự bất ổn chính trị cũng khiến các hoạt động kinh tế bị đình trệ, dẫn tới khủng hoảng.

Thị trường cổ phiếu biến động

Khi đầu tư cổ phiếu sụt giảm, các doanh nghiệp bị giảm vốn chủ sở hữu. Điều này làm ngân hàng không sẵn sàng cho doanh nghiệp vay tiền. Với trường hợp ngân hàng đã cho vay, vốn chủ sở hữu giảm sẽ làm giảm giá trị tài sản đảm bảo khiến rủi ro tín dụng tăng.

Mặt khác, nếu xuất hiện bong bóng trên thị trường cổ phiếu, tạo nhu cầu ảo làm giá cổ phiếu tăng cao. Đến một lúc nào đó, mức giá đột ngột giảm xuống, cả nhà đầu tư và doanh nghiệp đều bị thiệt hại nặng nề. Nhà đầu tư mất tiền, doanh nghiệp bị giảm vốn.

Thị trường cổ phiếu biến động

Ngân hàng cho vay cũng bị thiệt hại vì nhà đầu tư không đủ khả năng chi trả khoản vay. Ngân hàng cũng e ngại không cho doanh nghiệp vay vốn vì vốn chủ sở hữu giảm. Cục diện đối nghịch này gây ra khủng hoảng trên thị trường tài chính.

Thâm hụt ngân sách chính phủ

Khi tình trạng thâm hụt ngân sách chính phủ trở nên trầm trọng, nguy cơ vỡ nợ chính phủ tăng cao. Cách giải quyết phổ biến nhất là chính phủ phát hành trái phiếu. Tuy nhiên, vì lo ngại vỡ nợ nên công chúng không mặn mà với trái phiếu chính phủ nữa. Vậy nên, các ngân hàng sẽ là bên phải mua.

Nếu tình hình tệ đi, trái phiếu chính phủ giảm giá trị, bảng cân đối tài sản của ngân hàng sẽ giảm. Khi đó, ngân hàng sẽ điều chỉnh giảm nguồn vốn cho vay, nền kinh tế thiếu vốn vận hành dẫn tới suy thoái. Bên cạnh đó, lo ngại vỡ nợ chính phủ nên nhà đầu tư nước ngoài rút vốn, giá trị nội tệ giảm mạnh dẫn tới khủng hoảng ngoại hối.

Những công ty có khoản vay ngoại tệ sẽ gặp khó khăn do nội tệ giảm giá, ngoại tệ tăng giá. Hậu quả là đầu tư và tín dụng đều suy giảm khiến nền kinh tế bị đình trệ. Đây là nguyên nhân dẫn tới khủng hoảng tài chính.

Lĩnh vực ngân hàng phát sinh vấn đề

Qua những nguyên nhân phía trên, có thể thấy ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong lĩnh vực tài chính. Sự bất ổn và khủng hoảng của hệ thống ngân hàng đều sẽ gây ra biến động trên thị trường tài chính.

Nếu ngân hàng hạn chế cho vay, nguồn vốn của các doanh nghiệp sẽ bị giảm sút. Kết quả, đầu tư và sản xuất giảm, nền kinh tế suy thoái và đình trệ. Ngược lại, nếu nhà đầu tư sử dụng đòn bẩy tài chính không hiệu quả, không có khả năng trả khoản vay cho ngân hàng, ngân hàng bị thiệt hại.

Số lượng các khoản vay này càng lớn, ngân hàng thiệt hại càng nhiều, nguồn vốn của ngân hàng bay hơi dần. Ngân hàng có thể đối mặt với việc không còn đủ tiền trả cho những khách hàng gửi tiền, cuối cùng phải phá sản. Điều này tác động lại nền kinh tế, nguy cơ suy thoái và khủng hoảng gia tăng.

#5 Cuộc khủng hoảng tài chính tàn khốc nhất trong lịch sử 

Đã có nhiều cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra tại nhiều địa điểm, nhiều khu vực trên toàn thế giới. Dưới đây là 5 cuộc khủng hoảng lớn và để lại hậu quả nghiêm trọng nhất.

Khủng hoảng tín dụng năm 1772

Cuộc khủng hoảng này nổ ra khi các ngân hàng ở Anh mất khả năng thanh toán. Vào những năm 1760 – 1770, đế quốc Anh trở nên vô cùng giàu có nhờ thương mại và số lượng lớn thuộc địa trên toàn thế giới. Vì vậy, các ngân hàng Anh có chính sách cho vay dễ dàng nhằm mở rộng tín dụng, thu lợi nhuận lớn.

Khủng hoảng tín dụng năm 1772

Biến cố xảy ra vào ngày 8/6/1772, một đối tác lớn của các ngân hàng Anh là Alexander Fordyce đã bỏ trốn sang Pháp để trốn khoản nợ khổng lồ của mình. Tin tức lan nhanh, hàng ngàn người xếp hàng trước cửa các ngân hàng đòi rút tiền.

Ngân hàng thất thủ, không có khả năng thanh toán và 20 ngân hàng đã bị phá sản. Cuộc khủng hoảng còn lan rộng tới phần lớn các quốc gia Châu Âu. Đây được cho là nguyên nhân dẫn tới sự kiện “Tiệc trà Boston” và Cách mạng Mỹ.

Đại khủng hoảng 1929 – 1939

Cuộc khủng hoảng này xảy ra do bong bóng đầu cơ chứng khoán xuất hiện từ đầu năm 1920. Hàng nghìn người đổ xô vào thị trường chứng khoán với mong muốn làm giàu nhanh chóng. Họ đổ tất cả tài sản, thậm chí vay ngân hàng để đầu tư. Bong bóng ngày một lớn dần và không thể kiểm soát được.

Đại khủng hoảng 1929 – 1939

Bước ngoặt đến vào ngày 24/10/1929, bảng niêm yết giá chứng khoán bất ngờ sụp đổ, thị trường chứng khoán Mỹ hỗn loạn. Sự hoảng loạn nhanh chóng lan rộng trên khắp đường phố New York và toàn nước Mỹ.

Sau sự việc này, cơn sốt chứng khoán chính thức chấm dứt, hàng trăm ngàn nhà đầu tư mất trắng, nhiều ngân hàng và công ty phá sản. Không dừng lại ở đó, hậu quả khủng hoảng tài chính này còn tiếp tục tàn phá nền kinh tế Mỹ trong 10 năm sau đó.

Cú sốc giá dầu OPEC 1973

Do xung đột với Mỹ ngày càng căng thẳng, các quốc gia vùng Vịnh (OPEC) tuyên bố ngừng vận chuyển, xuất khẩu dầu mỏ cho Mỹ và các nước đồng minh của Mỹ.

Sự kiện này gây ra tình trạng thiếu dầu trầm trọng, giá dầu tăng cao đột biến. Thiếu nguồn cung năng lượng, giá năng lượng tăng cao, nền kinh tế bị đình trệ, lạm phát xuất hiện và ngày một trầm trọng hơn.

Khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997

Thập niên 1990, một số quốc gia Châu Á như Thái Lan, Malaysia, Philippin, Indonesia, Hàn Quốc và Nhật Bản có tốc độ phát triển kinh tế thần tốc, đặc biệt trên thị trường tài chính. Rất nhiều nguồn vốn nước ngoài đổ xô về đây, nhiều nhất là nguồn đầu tư tài chính ngắn hạn.

Khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997

Tuy nhiên, vào thời điểm đó, giá trị đồng nội tệ gắn chặt và phụ thuộc vào đồng đô la Mỹ, sản xuất cũng tập trung xuất khẩu đến thị trường Mỹ. Điều này giúp nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng nhưng lại bị động trước sự thay đổi của đô la Mỹ.

Giữa năm 1990, FED tăng lãi suất, đồng đô la tăng giá, nguồn đầu tư khắp nơi đổ về Mỹ. Để giữ chân nhà đầu tư, các quốc gia Đông Á tiếp tục tăng lãi suất, giá nội tệ vì thế cũng tăng theo. Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế này phụ thuộc hoàn toàn vào bên ngoài, năng lực sản xuất trong nước không theo kịp.

Kết quả, từ tháng 7/1997, đồng Baht của Thái Lan bị giao bán tràn lan trên thị trường khiến giá trị Baht giảm mạnh. Chính phủ Thái Lan đã cố gắng mua vào nội tệ nhưng không giải quyết được vấn đề. Cuộc khủng hoảng bắt đầu từ Thái Lan, sau đó lan rộng sang các nước ASEAN rồi đến Hàn Quốc và Nhật Bản.

Khủng hoảng tài chính năm 2008

Giai đoạn 2007 – 2008, nhận thấy giá nhà đất tăng cao, cơ hội kiếm lời lớn, nhiều người tham gia vào thị trường bất động sản. Các ngân hàng Mỹ cho số lượng lớn những người không có trả năng chi trả khoản nợ vay thế chấp mua nhà với lãi suất cao. Đây được cho là nguyên nhân khủng hoảng tài chính 2008.

Bong bóng nổ khi giá nhà chạm đáy, nhiều người mất trắng, không có khả năng hoàn trả khoản nợ đã vay. Kéo theo đó, các khoản nợ tín dụng không thể thanh toán khiến bong bóng tài chính nổ. Hàng triệu người bị mất nhà cửa, thị trường chứng khoán sụp đổ.

Khủng hoảng tài chính năm 2008

Hàng triệu người thất nghiệp, hệ thống ngân hàng khủng hoảng, nhất là ngân hàng Lehman Brothers – một trong những nhân hàng đầu tư lớn nhất thế giới lúc đó. Cuộc khủng hoảng này nhanh chóng lan rộng sang các quốc gia khác, nền kinh tế của nhiều quốc gia suy thoái.

Một số hướng giải quyết khủng hoảng tài chính

Có 2 hướng giải quyết phổ biến nhất cho tình trạng khủng hoảng tài chính như sau:

Thứ nhất, giải quyết khủng hoảng thanh toán nhanh chóng để giảm các thiệt hại. Buộc các doanh nghiệp, tổ chức, công ty đang vay vốn ngân hàng và có nguy cơ không trả được nợ phải đánh giá lại tài sản của mình, thực hiện cơ cấu lại nợ để giảm gánh nặng cho ngân hàng.

Một số hướng giải quyết khủng hoảng tài chính

Thứ hai, nhanh chóng cung cấp thanh khoản cho thị trường và thuyết phục mọi người không bán tài sản của mình. Cách này giải quyết thiếu hụt thanh khoản và giảm nỗi hoảng sợ về thanh khoản của thị trường, theo đó:

  • Ngân hàng trung ương sử dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở, cung cấp lượng lớn thanh khoản cho thị trường. Ngân hàng trung ương sẽ cho các ngân hàng thương mại vay tiền để giải quyết thanh khoản. Từ đó, tiền sẽ được tự động phân bổ, lưu thông trong nền kinh tế, đảm bảo nền kinh tế hoạt động ổn định.
  • Chính phủ cần xây dựng cơ chế bảo hiểm tiền gửi cho người dân, tránh xảy ra việc rút tiền ồ ạt. Tăng lãi suất tiền gửi là một biện pháp được sử dụng phổ biến lúc này.

Với ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 và xung đột Nga – Ukraine, nền kinh tế thế giới hiện nay đang gặp khó khăn khiến nhiều người lo lắng. Hy vọng những thông tin trong bài viết này giúp nhà đầu tư hiểu hơn về khủng hoảng tài chính và các nguyên nhân gây ra khủng hoảng. Qua đó có chiến lược đầu tư phù hợp, không để tâm lý hoang mang, lo lắng ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của mình.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Contact Me on Zalo
0932320699